Phần 5 – Ông bà ngoại và Vietnam
16 tuổi, tôi được về thăm Vietnam lần đầu tiên. Tôi vẫn nhớ đó là vào mùa đông khi kì nghỉ ở trường bắt đầu… Ông bà ngoại tôi chỉ có hai người con là mẹ và dì Hằng. Dì tôi hiện giờ sống ở California, cũng rất hiếm khi tôi có dịp được gặp dì vì dì làm trợ lý kinh doanh trong một công ty lớn nên rất bận. Ngày mẹ mất dì cũng chỉ kịp bay sang và ở với tôi hôm đám tang mẹ. Dì khóc rất nhiều và nói nếu muốn tôi có thể chuyển qua California sống với dì. Nhưng cuộc sống của tôi là ở đây, ở Paris này. Ngày nào còn ở trong căn nhà của mình, tôi còn cảm thấy như mẹ vẫn luôn ở cạnh tôi.
Ở Vietnam người thân duy nhất của tôi và mẹ chính là ông bà ngoại. Nhà ông bà ở trong một khu apartment, mà sau này mẹ nói với tôi tiếng Vietnam người ta gọi đấy là “nhà tập thể” . Không biết người khác cảm thấy sao, nhưng riêng tôi cảm thấy rất thích thú với việc chạy lên chạy xuống mấy tầng cầu thang, ở giữa có một lối đi dùng để dắt xe. Tôi thường hay đi lên đi xuống bằng cái lối đi ở giữa đó hơn là bước lên những bậc cầu thang. Ông bà ngoại tôi là những người rất hiền lành. Hôm về Vietnam, tự mình ông bà bắt taxi ra tận sân bay đón mẹ con tôi. Vừa nhìn thấy tôi, bà vội ôm tôi rất chặt và bà khóc. Không hiểu sao dù đó là lần đầu tiên gặp ông bà, nhưng tôi cũng không kìm được nước mắt, cảm nhận được trên đời này ngoài mẹ tôi ra, tôi còn có người thân, tôi còn có người thương yêu tôi đến thế. Tôi và mẹ ở lại Vietnam trong căn nhà tập thể của ông bà đến qua Tết. Đó cũng là cái Tết đầu tiên của tôi ở Vietnam. Một cái Tết đầu tiên tôi cảm nhận thấy hạnh phúc của mình thật nhiều và trọn vẹn. Được ông bà và mẹ đưa đi thăm bạn bè, người quen. Được cùng ông bà đi chợ Tết, được ông bà chỉ cho biết đâu là “cành đào” và “cây quất”, cả những tờ giấy đỏ thẫm trên đó viết những hàng chữ mang ý nghĩa chúc phúc được gọi là “câu đối” thật đẹp. Tôi được cùng bà gói bánh chưng và làm mâm cỗ Tết, nghe bà dạy tên của các món ăn truyền thống ở Vietnam. Trước đó trong đầu tôi chỉ có khái niệm về món Phở… Đêm giao thừa, nằm cạnh bà tôi cảm thấy thật ấm áp. Dù sau này đã được ở thêm mấy cái Tết ở Vietnam nhưng không bao giờ tôi quên được ngày Tết đầu tiên đó.
Thời gian đó tôi nói tiếng Việt rất kém, giao tiếp với ông bà nhiều khi vẫn bằng Tiếng Pháp vì trong sinh hoạt hàng ngày tôi nói chuyện với mẹ bằng tiếng Pháp, chỉ thỉnh thoảng mới nói tiếng Việt, còn ở trường thì các bạn học đều là người Pháp. Thật may mắn ông bà tôi đều nói được tiếng Pháp. Có một lần ông dẫn tôi ra hiệu sách ở phố Tràng Tiền, và ông mua cho tôi một vài quyển sách alphabet dạy tập đánh vần. Về đến nhà ông đưa cho tôi một quyển sổ, điều đặc biệt là quyển sổ này do chính tay ông tự làm bằng cách lấy tất cả những trang giấy thừa trong tập vở của trẻ con hàng xóm rồi ghim chúng thành một quyển sổ. Bây giờ tôi vẫn còn giữ quyển sổ đó, mỗi lần nhìn thấy nó tôi thật sự rất nhớ ông. Tôi trân trọng từng nét bút ông viết trong đó, giống như đấy là báu vật riêng của mình vậy.
Tôi trở về Paris ngay sau Tết vì kỳ nghỉ đông ở trường cũng đã hết. Ông bà bắt hai mẹ con mang rất nhiều đồ từ Vietnam sang mặc dù mẹ nói ở Paris không thiếu thứ gì, mẹ vẫn nấu cơm Vietnam hàng ngày. Nhưng ông bà khăng khăng cho rằng đồ ở Paris dù ngon thế nào nhưng cũng không thể giống như đồ ở Vietnam. Đến giờ vẫn vậy, lần nào tôi từ Vietnam về Paris thì đều cũng khệ nệ xách theo rất nhiều thứ.
Mỗi lần ở Vietnam, tôi đều có những khám phá thật mới mẻ. Tôi bắt đầu thấy yêu mến Hanoi, nhất là vào những buổi sáng mùa hè khi mọi người chưa bắt đầu đi làm, không khí thật trong trẻo. Tôi thích dậy thật sớm, bắt xe đi lên phía Hồ Gươm và đi bộ xung quanh khu vực đó.Tôi cảm giác hình như có một Paris ngay ở giữa thủ đô Hanoi.
Tiệm café La Terrasse du Metropole với những bộ bàn ghế thanh mảnh màu xanh lá của khách sạn Sofitel Metropole nằm trên đường Ngô Quyền thật giống như bất kỳ tiệm café nào trên đường phố Paris. Tôi thích ngồi ở đây, thưởng thức một ly cappuccino và một chiếc bánh croissant, ngắm mọi người đi lại rong ruổi trên đường. Tôi phát hiện ra khu vực xung quanh Hồ Gươm và vườn hoa Con Cóc sáng sớm có rất nhiều người tập thể dục, họ ở đủ các lứa tuổi khác nhau. Từ các cô bé cậu bé teenagers, tai nghe headphone đang chạy bộ đến các cụ già chậm rãi từng động tác của bài Thái cực quyền, xa xa có một nhóm các chị cùng nhau tập aerobics. Thỉnh thoảng tôi ghé qua quán kem Fanny ở ngay Hồ Gươm – có vẻ đó là quán kem mang phong cách Pháp duy nhất mà tôi biết ở Hanoi – gọi cho mình hai viên kem rồi đi bộ dọc phố Hàng Khay, nơi bán rất nhiều đồ lưu niệm cho du khách, hay vòng lên con phố Hàng Đào Hàng Ngang ngắm nhìn những cửa hàng quần áo san sát nhau, người người đi lại tấp nập và hối hả.
Mẹ tôi thì thích tiệm café Highlands đặt trên một du thuyền ở Hồ Tây. Không hiểu sao tôi chỉ thích đến đó vào những buổi sáng mùa đông, sương mù chầm chậm xung quanh, mọi thứ đẹp một cách đặc biệt. Sau Highlands, mẹ còn thích một tiệm café khác mang phong cách Italy có tên Ciao, ở gần Hồ Gươm. Buổi trưa ở đấy lúc nào cũng rất nhộn nhịp, có vẻ như đây là một trong những tiệm café nổi tiếng ở Hanoi. Họ có cách làm món thịt bò rất ngon và mềm, kem ở đây cũng rất đáng để thử một vài vị…
Dù thời gian ở Hanoi không nhiều, nhưng với tôi, sau Paris, Hanoi luôn là nơi tôi nhớ thương nhiều. Ở đấy tôi có ông bà ngoại, ở đấy tôi có một gia đình.
(to be continued...)